Quy định về tiền lương đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp làm căn cứ tính hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

1. Tiền lương đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp làm căn cứ tính hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Căn cứ vào Khoản 7 Điều 4 Thông tư số 26/2017/TT-BLĐTBXH ngày 20/09/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, tiền lương đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp làm căn cứ tính hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là:
Tiền lương tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong trường hợp người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thông thường (người lao động vẫn đang làm cho người sử dụng lao động, công việc mà người lao động đang thực hiện dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho người lao động).
Ví dụ:
Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động tháng 10 thì tiền lương tháng 9 được coi là tiền lương đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để làm cơ sở tính bồi thường theo quy định. chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. .
Tháng 8, khi người lao động phát hiện bị bệnh nghề nghiệp thì tiền lương của tháng 7 được coi là tiền lương đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để làm cơ sở tính hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Tiền lương tháng cuối cùng đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của công việc đã làm mà công việc đó gây ra bệnh nghề nghiệp đối với trường hợp người lao động bị bệnh nghề nghiệp khi đã nghỉ hưu hoặc không còn làm nghề, công việc có nguy cơ bị bệnh nghề nghiệp.
Ví dụ. Người lao động bắt đầu làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm từ tháng 5/2015 đến khi nghỉ hưu và nghỉ hưu từ tháng 10/2019 và được chẩn đoán mắc bệnh nghề nghiệp từ tháng 11/2019 thì được đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để làm cơ sở hưởng chế độ hưu trí. tính hệ số tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là tiền lương của tháng 10/2019 (tức là tháng cuối cùng làm công việc nặng nhọc, nguy hiểm).
2. Các trường hợp đặc biệt
2.1. Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động ngay trong tháng đầu đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Căn cứ vào Khoản 7 Điều 4 Thông tư số 26/2017/TT-BLĐTBXH ngày 20/09/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, Trường hợp người lao động bị tai nạn lao động trong tháng đầu tiên đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trong tháng đầu tiên trở lại làm việc thì đóng bảo hiểm xã hội
Sau thời gian gián đoạn thời gian đóng do chấm dứt hợp đồng thì tiền lương đóng bảo hiểm được nhập vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp để làm cơ sở tính đóng bảo hiểm xã hội tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là tiền lương trả cho người sử dụng lao động vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của công ty.
Ví dụ: Người lao động A mới đi làm và tham gia bảo hiểm xã hội từ tháng 02/2021, nhưng đến ngày 25/02/2021, người lao động bị tai nạn lao động, tiền lương tháng thứ nhất làm căn cứ đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là 6.000.000 đồng đồng.
Suy ra tiền lương đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp làm căn cứ tính hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của người lao động A là tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. đóng Quỹ TNLĐ-BNN tháng 2 (6.000.000 đồng).
2.2. Trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 01/01/2016 mà thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định
Theo Khoản 7 Điều 4 Thông tư số 26/2017/TT-BLĐTBXH ngày 20/09/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong trường hợp người lao động tham gia bảo hiểm xã hội trước ngày 01/01/2016 mà thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì mức lương làm căn cứ tính trợ cấp được tính trên cơ sở hệ số lương và phụ cấp (nếu có) nhân với mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng trợ cấp.
Đây là nhóm người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định (cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang được quy định trong Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ). Trong trường hợp này, mức lương làm căn cứ tính trợ cấp là:
(Hệ số lương tại thời điểm hưởng trợ cấp + Phụ cấp tại thời điểm hưởng trợ cấp) x Mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng trợ cấp
2.3. Trường hợp người lao động đồng thời giao kết hợp đồng lao động với nhiều người sử dụng lao động
Theo Khoản 7 Điều 4 Thông tư số 26/2017/TT-BLĐTBXH ngày 20/09/2017 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong trường hợp người lao động đồng thời giao kết hợp đồng với nhiều người sử dụng lao động thì tiền lương tính trợ cấp bằng tổng các mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp của tất cả các hợp đồng lao động tại tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động hoặc bị bệnh nghề nghiệp của lần sau cùng nhưng không quá 20 tháng lương cơ sở.
Trong trường hợp này, mức lương làm căn cứ tính trợ cấp là:
Mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm vào Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo hợp đồng 1 + Mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm vào Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo hợp đồng 2 +…+ Mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm vào Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo hợp đồng n (nhỏ hơn hoặc bằng 20 tháng lương cơ sở tại thời điểm hưởng chế độ)
Ví dụ: Người lao động từ tháng 01/2021 đến tháng 12/2021 tham gia đồng thời 2 hợp đồng lao động với tư cách là người lao động. Đối với hợp đồng 01, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động là 20.000.000 (đồng). Đối với hợp đồng 02 thì tiền lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động là 10.000.000 (đồng). Người lao động bị tai nạn lao động vào tháng 7/2021. Như vậy, tiền lương làm căn cứ tính tiền bồi thường là:
20.000.000 + 10.000.000 = 30.000.000 (đồng)
Mức lương cơ sở năm 2021 là 1.490.000. Vậy 20 lần mức lương cơ sở là:
20 x 1.490.000 = 29.800.000 (đồng)
Tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp không được vượt quá 20 lần mức lương cơ sở, để tiền lương làm căn cứ tính trợ cấp thực lĩnh của người lao động là 29.800.000 (đồng) chứ không phải 30.000.000 (đồng).
Như vậy Luật Nam Sơn đã giải đáp cho các bạn Quy định về tiền lương đóng bảo hiểm vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp làm căn cứ tính hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Trong trường hợp quý khách có bất kỳ các vấn đề nào gặp khó khăn đừng ngần ngại liên hệ Luật Nam Sơn để được hỗ trợ trực tiếp bởi các Luật sư Hà, Luật sư Trung và các Luật sư có kinh nghiệm khác.
Nội dung trên chỉ mang tính chất tham khảo, quý khách hàng có nhu cầu tư vấn chi tiết vui lòng liên hệ:
Điện thoại: 1900.633.246
Gmail: Luatnamson79@gmail.com